stringtranslate.com

Seis provincias del sur de Vietnam

Vietnam del Sur durante la dinastía Nguyễn antes de 1841. Cần Vột ( Kampot ), Vũng Thơm ( Kampong Saom ) y Svay Rieng (cuña triangular que sobresale en Vietnam conocida como el "Pico de Loro ") serían cedidas más tarde por los colonizadores franceses a Camboya . Cao Mien = Camboya . Biển Đông = vi: Mar del Este . Nam Vang = Phnom Penh . Koh Kong fue anexada por Siam hasta que fue devuelta a la Camboya francesa.
Mapa del sur de Vietnam en 1883 como parte de la Indochina francesa , aunque siguiendo las divisiones administrativas de Nam Kỳ Lục Tỉnh de la dinastía Nguyễn de 1832-1862 .
Mapa de la Baja Cochinchina

Las Seis Provincias del Sur de Vietnam ( en vietnamita: Nam Kỳ Lục tỉnh , 南圻六省 o simplemente Lục tỉnh , 六省) es un nombre histórico para la región del Sur de Vietnam , a la que se hace referencia en francés como Basse-Cochinchine ( Baja Cochinchina ). [1] La región fue definida y establecida políticamente después de la inauguración de la dinastía Nguyễn , y llamada con este nombre desde 1832, cuando el emperador Minh Mạng introdujo reformas administrativas, hasta 1867, que culminó con la campaña francesa de ocho años para conquistar las Seis Provincias.

Las seis provincias en las que el emperador Minh Mạng dividió el sur de Vietnam en 1832 son:

Estas provincias a menudo se subdividen en dos grupos: las tres provincias orientales de Gia Định, Định Tường y Biên Hòa; y las tres provincias occidentales de Vĩnh Long, An Giang y Hà Tiên.

Historia

Cochinchina francesa (Basse Cochinchine Française) en 1881, basada en las Seis Provincias de la dinastía Nguyễn antes de 1861. La orilla norte del canal Vĩnh Tế y el pico de loro de Svay Rieng fueron cedidos al Reino de Camboya.

La región del delta del Mekong (donde se encuentran las Seis Provincias) fue anexionada gradualmente por Vietnam al Imperio Jemer desde mediados del siglo XVII hasta principios del siglo XIX, a través de su campaña de expansión territorial Nam tiến . En 1832, el emperador Minh Mạng dividió el sur de Vietnam en las seis provincias Nam Kỳ Lục tỉnh.

Según el Đại Nam nhất thống chí (atlas nacional de la dinastía Nguyễn) del Quốc sử quán (compilación oficial de la era Nguyễn de la historia, la geografía y el pueblo vietnamita de 1821 a 1945), en 1698 el señor Nguyễn Phúc Chu estableció la prefectura ( phủ ) de Gia Định. En 1802, el emperador Gia Long convirtió la prefectura de Gia Định en un municipio, y en 1808, cambió el nombre de la prefectura de Gia Định a una gobernación que contenía los cinco municipios de Phiên An, Biên Hòa (o Đồng Nai), Định Tường, Vĩnh Thanh (o Vĩnh Long) y Hà Tiên. En 1832, el emperador Minh Mạng cambió el nombre de Ciudadela de Phiên An a Ciudadela de Gia Định , y los cinco municipios se convirtieron en las seis provincias de Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên y la recién establecida An Giang. Así, en 1832 se crearon las Seis Provincias, que en 1834 se denominaron colectivamente Nam Kỳ ( Región del Sur , que más tarde se conocería en Occidente como Cochinchina ). La provincia de Phiên An pasó a llamarse provincia de Gia Định en 1835. . [2]

Después de que los invasores coloniales franceses, liderados por el vicealmirante Charles Rigault de Genouilly atacaran y capturaran las tres provincias orientales de Gia Định, Định Tường y Biên Hòa en 1862, e invadieran las provincias occidentales restantes de Vĩnh Long, An Giang y Hà Tiên en 1867, el Imperio francés abolió las divisiones administrativas creadas por la dinastía Nguyễn. Al principio, los franceses usaban departamentos en lugar de prefecturas y distritos en lugar de distritos ( huyện ). [3] En 1868, el antiguo Nam Kỳ Lục tỉnh tenía más de 20 distritos. Cochinchina estaba gobernada por un gobernador designado por el gobierno francés en Saigón, y cada condado tenía un Secrétaire d'Arrondissement (en: " Secretario del condado ", vi: " thư ký địa hạt " o " bang biện" ). El condado de Bạc Liêu fue creado en 1882. El 16 de enero de 1899, los condados se transformaron en provincias por decreto del gobierno francés, cada una con un primer ministro provincial (fr: " chef de la province ", vi: " chủ tỉnh ") que es el jefe del gobierno provincial.

División francesa en 21 provincias más pequeñas, interrupción de laSeis provincias

El gobierno francés dividió las seis provincias originales en 21 provincias más pequeñas. A partir del 1 de enero de 1900, tras los decretos de 1899, Nam Kỳ se dividió en las siguientes 21 provincias:

La razón de esta división en 21 provincias [4] fue que el Imperio francés pretendía borrar el nombre "Lục tỉnh" de los corazones y las mentes del pueblo y la lengua vietnamitas , y cortar cualquier sentimiento de apego y nacionalismo vietnamita con esta región para evitar una potencial revolución o rebelión local. Sin embargo, en 1908 el periódico Lục Tỉnh Tân Văn ("Noticias de las Seis Provincias") cuyo editor era Gilbert Trần Chánh Chiếu , todavía usaba comúnmente los nombres "Lục Tỉnh" y "Lục Châu". El Imperio francés llamó a Vietnam del Sur ( Nam Kỳ ) Cochinchina, Vietnam del Norte ( Bắc Kỳ ) Tonkín y Vietnam Central ( Trung Kỳ ) Annam . "Cochinchina" era el nombre utilizado por los angloparlantes en ese momento. [5]

Divisiones administrativas

Fuentes de la tabla completa: [1] [6]

Véase también

Referencias

  1. ^ ab Trương, Jean Baptiste Pétrus Vĩnh Ký. "Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine (Curso pequeño sobre geografía de la Baja Cochinchina)". Bibliothèque nationale de France (Biblioteca Nacional de Francia) . Consultado el 4 de enero de 2014 .
  2. ^ Đại Nam Nhất Thống Chí. Volumen 5. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính (Nxb Thuận Hóa, 1992, trang 122, 133, 200, 201). Tuy nhiên, sử Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu (tr. 205) y Nguyễn Đình Đầu ("Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh", trong Đại chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (título 1 Nxb TP HCM, 1987, tr 209) đều cho rằng: "Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê . Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định".
  3. ^ Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tomo XX). Saigón: 1945, pág. 16.
  4. ^ Sau này, ngày 11 de 5 de 1944, Pháp lập tỉnh thứ hai mươi hai là Tân Bình , gồm một phần tỉnh Gia Định y Chợ Lớn nhập lại.
  5. ^ Để tham khảo, sau đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Đầu (“Thay lời giới thiệu”, en trong: Pierre Pegneaux de Béhaine Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự Vị An Nam La Tinh Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch y. giới thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr: 5-6.): “Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra. Làm hai phần COCIN y CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự Vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts'inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần” y chữ Latinh ghi thành COCINCINA (mà ngư ời Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ 17, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, CHINA, COCHIN-CHINA hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ. “Từ đầu thế kỷ, hai họ Trịnh–Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng Trong y Đàng Ngoài , canción Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, ...) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài . Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ Điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên . Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự Vị An Nam La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ phần đất phương nam rất rộng . Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai . En 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 y bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc y mệnh danh: TONKIN là BẮC KỲ ANNAM là TRUNG KỲ COCHINCHINE là NAM K Ỳ “Cả ba địa danh Đông Kinh , An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
  6. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển XXXI, tỉnh Gia Định, trang 204.

Lectura adicional

Enlaces externos